Wednesday 1 June 2011

TNĐT - Suối Vàng, Chín Suối

Trong kho tàng văn học Việt Nam, ngoài những tác phẩm đủ mọi thể loại do các tác giả hữu danh hay khuyết danh, còn bao gồm rất nhiều câu ca dao, thành ngữ điển tích vẫn thường được lưu truyền và phổ biến trong sinh hoạt thường ngày.    Tuy nhiên, cũng đôi khi người ta sử dụng hay vẫn nghe quen tai mà lại không hoàn toàn hiểu trọn vẹn ý nghĩa hay nguyên nhân vì sao lại có câu thành ngữ điển tích đó.

Trong bài viết nầy, Tứ Diễm xin chia sẻ lời giải thích về câu thành ngữ "Suối Vàng", "Chín Suối" do anh Dương Trọng Hiếu biên soạn dựa theo quyển  "Điển hay, tích lạ" của tác giả Nguyễn Tử Quang.   Xin cám ơn anh Hiếu.   Mời quý vị cùng xem tiếp theo nha




Thành Ngữ Điển Tích

SUỐI VÀNG, CHÍN SUỐI


Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, lúc Thúy Kiều cùng hai em đi dự hội Đạp Thanh và lễ Thanh Minh thấy mộ của Đạm Tiên vắng lạnh hoang tàn, Kiều động lòng thương xót hỏi thăm.  Được Vương Quan kể lại cuộc đời bi thảm của nàng ca nhi nằm dưới mộ, Kiều ngậm ngùi khóc, có câu :

Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta thắp một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.

"Suối vàng" do chữ "Huỳnh tuyền", tức là suối nước màu vàng.  Người Tàu ngày xưa tin rằng ở dưới âm phủ có chín cái suối nước vàng, nên có chữ Cửu tuyền, Suối vàng, hay Chín suối, đều chỉ chỗ ở của người chết.

Đời Xuân Thu (722-479 trước Dương lịch), chúa nước Trịnh (một nước nhỏ ở vào huyện Tân Trịnh, thuộc về một phần địa phận phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam ngày nay) là Trịnh Trang công tên Ngộ Sinh rất có hiếu với mẹ.  Vì mẹ bất chính nên Trang công có lời thề :"Chẳng phải chốn suối vàng thì
chẳng nhìn nhau" (Bất cập huỳnh tuyền vô tương kiến dã).

Nguyên vợ của Trịnh Vũ công là Khương thị sinh được hai con.   Con trưởng là Ngộ Sinh, con thứ tên là Đoạn.  Cái tên Ngộ Sinh là do sự đẻ thình lình làm cho Khương thị chịu nhiều đau đớn.  Vì đó mà Khương thị đâm ra ghét Ngộ Sinh, thương Đoạn.  Lại Đoạn là người khôi ngô, thông minh, mặt trắng như dồi phấn, môi đỏ như son, sức khoẻ lạ thường, thêm tài kỵ xạ. Khương thị rất mực thương yêu, muốn sau này Đoạn được nối ngôi nên thường khoe Đoạn là người hiền trước mặt chồng và tỏ ý muốn Đoạn được ngôi thế tử.  Trịnh Vũ công bảo :

- Anh em có thứ bực, không nên xáo trộn đạo lý.  Hơn nữa Ngộ Sinh không có tội lỗi gì, sao lại bỏ trưởng mà lập thứ được.

Trịnh Vũ công lập Ngộ Sinh làm thế tử.  Còn Đoạn thì đem đất Cung phong cho.  Khương thị càng bất bình.  Vũ công mất, Ngộ Sinh lên kế vị tức là Trịnh Trang công. Khương thị rất buồn bã, bảo Trịnh Trang công :

- Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh, đất rộng ngoài trăm dặm mà chỉ để cho người em ruột thịt một chỗ đất nhỏ bé không đủ dung thân, sao yên lòng được ?

- Vậy xin mẫu thân dạy cho biết ý muốn.

- Sao con không lấy đất Chế-ấp mà phong cho em con.

- Chế-ấp là nơi hiểm yếu, tiên vương ngày xưa có di mạng cấm phong cho bất cứ ai.  Vậy trừ đất ấy, mẫu thân muốn chỗ nào, con sẽ vâng lời.

- Nếu vậy phong cho Đoạn ở Kinh thành.

Trịnh Trang công im lặng, không nói gì.  Khương thị thấy thế nổi giận, nói :

- Nếu con không nhận như vậy thì cứ đuổi Đoạn đi sang nước khác, để nó kiếm cách gì làm ăn được thì nó làm !
Trịnh Trang công thở dài :

- Con đâu lại làm thế được !

Hôm sau, Trang công vời Đoạn vào phong đất Kinh thành.  Đại phu là Sái Túc can rằng :

- Kinh thành là một ấp lớn, đất rộng, người đông.  Nếu đem phong cho Đoạn thì mai hậu người tất cậy thế chuyên quyền.
Trang công nói :

- Mẫu thân ta muốn như vậy thì ta phải nghe theo vậy.

Đoạn được phong đất Kinh thành, vào cáo biệt mẹ.  Khương thị đuổi kẻ hầu cận rồi bảo Đoạn :

- Anh mầy không nghĩ dến tình ruột thịt, đãi mầy lắm điều bạc.  Nhờ ta 3 lần khẩn khoản, nó mới phong đất Kinh thành cho mầy, ấy là vị nể chưa chắc thành thâ.t.  Con về Kinh thành nên lo luyện tập binh mã, phòng bị sẵn sàng, nếu có cơ hội thì đem quân lại đánh.  Ta sẽ nội ứng cho mà chiếm lấy nước Trịnh.  Nếu con đoạt được ngôi của Ngộ Sinh thì ta có chết cũng được hả dạ.

Đoạn lãnh lịnh mẹ rồi ra đóng ở đất Kinh thành.  Từ đấy, Đoạn giả cách đi săn bắn mà luyện tập binh sĩ, tìm kiếm mưu mô chiếm lấy nước Tri.nh.  Đoạn lại chiếm luôn cả hai ấp gần đó.  Quan ấp tể trốn vào Trịnh kêu cứu. Trịnh Trang công cho đem quân đi dẹp.  Trang công nói :

- Đoạn dẫu vô đạo nhưng chưa rõ tội lỗi.  Nếu ta đem quân đánh thì quốc mẫu ắt tìm cách ngăn cản.  Người ngoài không biết lại bảo ta bất hữu, bất hiếu.  Chi bằng cứ để thế, Đoạn tất làm càn, không hề kiêng nể.  Lúc ấy ta sẽ kể tội trạng đem quân đi đánh thì người trong nước chẳng ai giúp Đoạn, mà đến mẫu thân ta cũng không oán trách gì được.

Công tử Lữ nói :

- Mặc dù vậy nhưng tôi sợ thế lực Đoạn ngày một to, lan ra như cỏ mọc, cắt không hết được thì mới làm sao ?  Chúa công nên mưu cách gì cho Đoạn phản nghịch, nổi loạn sớm thì đánh hắn mới chắc được.

Trang công cho là phải.  Bấy giờ cả hai mới tính kế nhau.   Sáng hôm sau, Trang công ra lịnh giao việc quốc chính cho Sái Túc để vào triều nhà Chu.  Khương thị nghe biết mừng lắm, cho là có dịp cướp được nước, vội vã viết thư sai người tâm phúc đem đến Kinh thành, hẹn với Đoạn chiếm lấy nước Trịnh.  Nhưng công tử Lữ đã cho người đón đường, giết tên đưa thư và đoạt lấy thư.  Trang công xem xong niêm lại, rồi sai kẻ tâm phúc giả làm người của Khương thị đem thư sang đưa cho Đoạn và lấy thư trả lời về.  Thư của Đoạn hẹn đến ngày mùng 5 tháng 5 thì khởi sự.

Trang công tiếp được thư, mừng nói :

- Tờ cung chiêu của Đoạn sẵn có đây rồi.  Mẫu thân hẳn không còn binh vực thế nào đươ.c.

Đoạn từ khi tiếp được thư mẹ liền sai con là Hoạt qua nước Vệ mượn binh, rồi phao tin rằng mình về Trịnh phụng mạng coi việc quốc chính mà mở thành tiến quân.  Công tử Lữ sai quân giả dạng lái buôn vào thành, đợi cho Đoạn cất quân thì họ đốt lửa làm hiệu cho Lữ biết mà đem quân đến, trong thành sẽ mở cửa đón.

Lữ vào được thành liền kể tội trạng của Đoạn và đem những đức tính của Trang công yết cho nhân dân biết.  Đoạn biết cớ sự không thành, rút quân về Cung thành.  Trịnh Trang công đem quân tiến đánh.  Đoạn tự tử.

Trang công vào thành, ôm thây Đoạn than khóc, lại đem tất cả thư từ của mẹ gởi cho Đoạn và thư của Đoạn gởi cho mẹ gói làm một gói, truyền Sái Túc trao lại cho Khương thị.  Trong lúc buồn tức, Trang công truyền an trí mẹ ở Đỉnh-ấp và thề rằng :"Chỉ đến khi xuống suối vàng, mẹ con mới gặp mặt được".

Khương thị trông thấy cả hai bức thư, lấy làm hổ thẹn, tự nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn thấy  Trang công nữa nên theo lịnh an trí ở Đỉnh-ấp.  Trang công về cung, thấy vắng mẹ, lòng chua xót than thở :"Ta buộc lòng mà để em chết, nay nỡ tình nào lìa mẹ nữa.  Ta thật có tội với luân lý".

Nhà vua rất lấy làm hối nhưng đã lỡ thề rồi.  Quan trấn Đỉnh-ấp là Dĩnh Khảo Thúc biết ý Trang vương nên mới bày cách giải lời thề là cho người đào đất đến tận mạch nước, làm một cái nhà dưới
hầm bên cạnh suối rồi đem Khương thị xuống ở, đặt thang dài để Trang công xuống gặp mẹ.  Trang công sụp lạy mẹ, nói:

- Ngộ Sinh này bất hiếu, lâu nay thiếu sự phụng thờ mẹ, xin mẹ tha tội cho.

Khương thị nói :

- Đó là lỗi mẹ, con không có tội gì.

Rồi đỡ Trang công dậy, mẹ con khóc lên não nuột.  Trang công liền dắt mẹ lên thang rồi ngồi xe, và tự cầm cương dưa mẹ về cung.

Đó là hình thức đào đất tận mạch nước suối để xuống tận nơi gặp mẹ nhầm cho đúng lời thề "gặp nhau ở suối vàng".



Tác giả Dương Trọng Hiếu
(Theo "Điển hay, tích lạ" - Nguyễn Tử Quang)


Mời xem thêm các bài viết khác trong phần Thành Ngữ - Điển Tích 

0 comments:

Post a Comment

 
;