(Trích trong "Kể chuyện thành ngữ tục ngữ" - NXB KHXH)
Mới nghe qua dường như có thể giải thích thành ngữ "ăn ốc nói mò" nhờ vào quan hệ nhân quả: "ăn ốc thì nói mò" hay "vì ăn ốc nên nói mò". Tương tự như khi hiểu các tổ hợp từ "ăn ốc lạnh bụng", "uống rượu nhức đầu", "hút thuốc khản giọng"...
Song cái ý "nói mò" (tức nói đoán chừng, hú họa, không chắc trúng, vì không có đủ căn cứ để nói) của "ăn ốc nói mò" lại chẳng có mối liên hệ nào với việc ăn ốc cả. Nói cách khác, ở đây giữa "ăn ốc" và "nói mò" không có quan hệ nhân quả.
Vậy thì, "ăn ốc" và "nói mò" kết hợp với nhau theo quan hệ gì ? Và thành ngữ "ăn ốc nói mò" đã xuất hiện như thế nào ?
Có người cho "ăn ốc nói mò" có xuất xứ ở việc uống rượu ăn ốc ở các quán đầu làng. Rượu vào lời ra. Người quá chén thường nói năng lung tung, hết chuyện này sang chuyện khác, đúng, sai, hay, dở, tục, thanh, không để ý tới. Cách giải thích này xem ra có một ít lý lẽ, song chưa thể yên tâm được. "Nói mò" trong "ăn ốc nói mò" không phải nói lung tung, chuyện này sang chuyện nọ như người
say rượu, mà là nói hú họa, đoán chừng về một điều cụ thể, vốn xác thực nhưng không biết hoặc chưa biết chắc chỗ đúng của điều cần nói là đâu.
Cũng có người nghĩ tới quan hệ điều kiện - giả định giữa việc "ăn ốc" và việc "mò ốc" : "muốn ăn ốc phải mò ốc" để cắt nghĩa xuất xứ của "ăn ốc nói mò". Nhưng tại sao ý "muốn ăn ốc phải mò ốc" lại liên hội được với ý "nói mò, nói hú họa, nói không có chứng cớ" của "ăn ốc nói mò" đã nêu trên.
Chúng ta thử tìm hiểu nguyên lai của thành ngữ này theo một hướng khác. Như đã biết, trong tiếng Việt có một từ "mò" là động từ (mò ốc, mò cua,...) và một từ "mò" là trạng từ (nói mò, đoán mò,...). "Mò" trong "ăn ốc nói mò" chính là từ "mò" trạng từ, chỉ cách thức hành động. Như vậy, giả định có quan hệ điều kiện giữa "ăn ốc" và "mò ốc" nêu trên là không có lý. Điều cần làm rõ ở đây là, vậy thì (nói) "mò" đã đi vào "ăn ốc nói mò" bằng con đường nào ?
Trong lời ăn tiếng nói của dân gian, bên cạnh "ăn ốc nói mò" chúng ta còn gặp các cách nói "ăn măng nói mọc, ăn cò nói bay", "ăn măng nói mọc" dùng chỉ sự bịa đặt, dựng chuyện, vu khống; "ăn cò nói bay" nói về thói chối bay, chối phắt, coi như không có, không biết điều đó có xảy ra thật. Ở hai cách nói này, gánh nặng ý rơi vào các vế sau (nói mọc, nói bay), giống như cách nói "ăn ốc nói mò".
Và, vế đầu (ăn măng, ăn cò) dường như chỉ giữ chức năng cấu tạo hình thái chứ không mang chức năng biểu ý. Đây là một loại cấu trúc độc đáo, rất hiếm thấy trong thành ngữ tiếng Việt. Có thể hình dung cơ chế tạo lập kiểu cấu trúc như sau:
1. Có một từ A biểu thị một hiện thực, ví dụ "mọc" trong "ăn măng nói mọc" biểu thị tính hay vu khống, dựng chuyện ở một loại người nào đó.
2. Do nhu cầu diễn đạt có tính hình ảnh, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn, người ta đã tạo ra lối nói mới dựa trên khuôn mẫu của cách nói đã có trước trong ngôn ngữ. Cách nói mới này được xây dựng trên nguyên tắc:
- Tìm trong ngôn ngữ một từ B có quan hệ lôgich với A, sao cho được một quan niệm khi kết hợp với A (theo trật tự AB hay BA) hợp với logic nhận thức bản ngữ. Ví dụ: nếu A là "mọc" thì B phải là "măng" (hay "trăng", "răng",...), vì nói "măng mọc" (hay "trăng mọc", "răng mọc",...) đều có thể quan niệm được. Còn nếu A là "bay" thì B phải là "cò" (hay "chim", "cờ", "lá",...) vì nói "chim bay" ("cờ bay", "lá bay")... đều hợp logic.
- Tùy vào đặc tính phạm trù của điều được nói đến và của hiện thực do B biểu đạt, tìm một hình thức (từ hoặc tổ hợp từ) có khả năng tương kết với AB (BA) theo luật này hay khác (chẳng hạn, điều được nói tới trong "ăn măng nói mọc" (ăn ốc nói mò, ăn cò nói bay,...) có thể quy vào phạm trù ứng xử nói năng. Do đó, các từ được chọn làm các yếu tố cấu trúc có thể là "ăn nói", "lời lẽ", "nói năng",... Vì B là từ chỉ sự vật thuộc phạm trù cái ăn được, nên người nói đã chọn từ "ăn nói" trong số các từ trên tương kết với "măng mọc".
Cuối cùng, dùng luật đối và điệp, vốn là biện pháp được dùng rất phổ biến trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt, với tư cách là chất gắn kết các yếu tố A, B để tạo thành khuôn mới.
Cụ thể "ăn măng nói mọc" được phân tích ra như sau: "ăn nói" tương kết với "măng mọc" nhờ luật đối và điệp tạo thành "ăn măng nói mọc" giống như dân gian đã dùng các từ "ong bướm" và "lả lơi" để tạo ra thành ngữ "bướm lả ong lơi" hoặc dùng các từ "đi về" và "mây gió" để tạo ra "đi mây về gió". "Ăn cò nói bay" và "ăn ốc nói mò" đều được tạo thành theo con đường nói trên.
Tác giả Dương Trọng Hiếu
(Trích trong "Kể chuyện thành ngữ tục ngữ" - NXB KHXH)
Mời xem thêm các bài viết khác trong phần Thành Ngữ - Điển Tích
0 comments:
Post a Comment