Saturday 27 June 2015

Dị Ứng Chữ Nghĩa - Tạp Ghi Huy Phương

"... Tôi đồng ý với nhiều người đã cho rằng không có ngôn ngữ Việt Cộng, ngôn ngữ miền Nam mà chỉ có ngôn ngữ Việt Nam và ngôn ngữ phát triển và đa dạng hóa theo thời gian. Nhưng là một người sinh ra và lớn lên, sống ở miền Nam ít nhất là nửa thế kỷ, tôi cảm thấy hụt hẫng và cảm thấy dị ứng với thứ ngôn ngữ hôm nay..." (trích nguyên văn một đoạn trong bài viết Dị Ứng Chữ Nghĩa của tác giả Huy Phương)

Nhận được một bài do người quen gửi qua email nên Tứ Diễm xin mạn phép tác giả Huy Phương để đăng vào góc nhỏ nầy chia sẻ cùng những ai cùng cách nghĩ với tác giả.  Ở cuối bài viết là Bảng Đối Chiếu Từ Ngữ Trước và Sau 1975.



Bên dưới là nguyên văn một bài viết của tác giả Huy Phương, Tứ Diễm nhận được qua email, xin mạn phép tác giả để chia sẻ cùng những ai cùng cách nghĩ với tác giả.

Dị Ứng Chữ Nghĩa
Tác giả Huy Phương


Tôi đồng ý với nhiều người đã cho rằng không có ngôn ngữ Việt Cộng, ngôn ngữ miền Nam mà chỉ có ngôn ngữ Việt Nam và ngôn ngữ phát triển và đa dạng hóa theo thời gian. Nhưng là một người sinh ra và lớn lên, sống ở miền Nam ít nhất là nửa thế kỷ, tôi cảm thấy hụt hẫng và cảm thấy dị ứng với thứ ngôn ngữ hôm nay, nói rõ là thứ ngôn ngữ phát sinh ra từ sau ngày đại họa, khi mà Việt Cộng cai trị toàn bộ đất nước Việt Nam Cộng Hòa.

Không phải dị ứng với chữ nghĩa, mà tôi còn dị ứng với giọng nói của Hà Nội bây giờ, nó khác xa với Hà Nội thanh lịch của bốn mươi năm về trước. Làm sao tôi quên được giọng nói của đài phát thanh Hà Nội, “thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” mà mỗi tối, tôi vẫn thường phải nghe cái giọng the thé của cô xướng ngôn viên qua chiếc loa rè treo ở cái chòi gác đầu trại, những đêm rét buốt ở trong những trại tù Hoàng Liên Sơn. Giọng nói đó còn theo đuổi, ám ảnh tôi cho đến ngày hôm nay.

Từ ngày bị anh em “ngoài ta” thống trị, ngoài những tiếng “ngụy ngôn” xảo trá như "cách mạng, giải phóng, học tập cải tạo, ngụy quân, ngụy quyền..." chúng ta thấy cả một rừng chữ nghĩa đảo lộn trong một xã hội điên đảo. Dân Sài Gòn đã nhìn tận mắt loại chữ nghĩa quái đản, sản phẩm của chế độ mới như “xưởng đẻ,” “cửa hàng thịt phụ nữ,” “nhà đái nam, nhà đái nữ...”

Cũng không phải vì lý do chính trị mà tôi ghét nó, hoặc có định kiến, kiểu “ghét ai ghét cả tông nhân họ hàng,” nhưng tôi ghét cái thứ ngôn ngữ tùy tiện, vô nghĩa và lai căng hay bắt chước Tàu một cách hoàn toàn vô ý thức và thiếu khôn ngoan.
Trước khi đi quá xa, và để cho độc giả khỏi quên, tôi xin nói ngay vào lối nói kiểu Tàu của người trong nước bây giờ. Chúng ta vẫn nghe những tiếng lạ tai từ khi nón cối dép râu “tiến về Sài Gòn,” thứ ngôn ngữ đặc sệt Tàu, mà chúng ta chưa hề nghe, chưa biết dùng nhưng cuối cùng cũng phải dùng, phải nghe nếu không sợ bị lạc đường. Đó là những tiếng hộ khẩu, hộ lý, hải quan, xuất khẩu, trợ lý, thủ trưởng, đăng ký, đường cao tốc, vô tư, bức xúc, bảo vệ, cơ địa, xử lý, khẩn trương, triều cường, giải phóng mặt bằng, quân hàm, sư trưởng... khác xa những gì mà chúng ta đã dùng thời trước.

Cái thì quá Hán, nhưng có cái thì quá nôm na. Thủy Quân Lục Chiến thì gọi là “Lính Thủy Đánh Bộ,” Bạch Ốc là “Nhà Trắng,” trực thăng là “máy bay lên thẳng,” tài xế thì gọi là “lái xe,” đại tiện hay tiểu tiện thì gọi là “ỉa, đái”... có khi nửa nôm nửa hán như “cán bộ gái,” có khi thô bỉ như “giường cứng- giường mềm,” có lúc ngớ ngẩn và vô nghĩa như “làm gái!”

Nếu chữ nghiêm trang, nghiêm chỉnh của chúng ta để nói về một thái độ, một nhân dáng thì vì sao trong nước lại dùng chữ nghiêm túc (nghĩa của nó là đứng yên - toàn thể túc lập!) Nếu chữ “liên lạc” của chúng ta dùng trong nghĩa trao đổi, thông tin thì cũng với nghĩa đó, họ dùng chữ “liên hệ,” như trong nghĩa nó có nghĩa trói buộc với nhau như gia tộc, con cái, họ hàng. Vì chúng ta đâu cần phải “liên hệ” qua điện thoại với một công ty khi chỉ cần mua một món hàng.

Có những địa hạt, việc dùng chữ nghĩa quá tùy tiện và ngu dốt, một cách “nói chữ” như chữ “xử lý” bị lợi dụng một cách nặng nề và không cần thiết như nói “xử lý cá xong” thì đến “xử lý” rau. Thay vì nói đơn giản “một con bọ xít” thì họ nói “một cá thể bọ xít,” thay vì nói “đi dạy học tại trường X.” thì người ta nói “nhận công tác giảng dạy...”
Nói chung là người ta thích dùng “đại ngôn” cho nó oai, ra điều chữ nghĩa, như ông bà ta có câu: “dốt thì hay nói chữ,” quảng cáo cho mấy cái bồn rửa nhà cầu, người ta cũng dùng đến tiếng “hoành tráng.”
Ba chữ “dòng, luồng và chùm” bị lạm dụng và gán ép một cách ngây ngô như: - “Dòng kem dưỡng da;” - “Luồng tư duy, luồng thông tin , luồng văn hóa , khám bệnh ngoài luồng;” - “Chùm ảnh, chùm thơ...”
Trong nước bây giờ thích nói chữ, Tây hay Tàu hơn là thuần Việt: Ảnh “nude” hơn là ảnh khỏa thân , “VIP” hơn là nhân vật quan trọng , “logic” là lý luận, “tuổi teen” hơn là tuổi thiếu niên, “ô tô” thay vì xe hơi, “nội y” thay vì áo quần lót , “sở hữu” hơn là có , “khẩn trương” thay vì nhanh lên.

Nếu vì trời sương mù mà trên xa lộ nhiều chiếc xe hơi đụng nhau dây chuyền (xe nọ đụng đít xe kia) thì vì sao họ dùng chữ “đụng liên hoàn,” cho ra Tàu, trong khi chữ liên hoàn còn có nghĩa “trở lại” như thơ liên hoàn là bài thơ mà câu cuối lặp lại câu đầu tiên. Cái xe đầu tiên bị đụng không thể nào đụng lại cái xe cuối cùng trên đường!
Trong khi chúng ta dùng chữ máy thu thanh (radio[bacaytruc.com]) thì Cộng Sản dùng chữ “đài,” chữ này chỉ có thể dùng để chỉ nơi phát thanh, như đài phát thanh Hà Nội. Cũng với lối nói tắt này, đôi khi vô nghĩa, nhưng theo thói quen ở trong nước, người ta vẫn hiểu, như vừa “xuất viện” là mới ở bệnh viện (nhà thương) ra, “nhập viện” là vào nhà thương. Nếu nói “điện” thì phải hiểu nghĩa là điện thoại. Thu phí là thu lệ phí!

Cộng Sản lấy tên Hồ Chí Minh đặt thay cho Sài Gòn có nhiều điều bất tiện và bất kính, vì người ta không thể nói: “Tôi đi... Hồ Chí Minh,” hay “Hồ Chí Minh bây giờ nạn cướp bóc tràn lan” mà phải dùng nguyên câu “thành phố Hồ Chí Minh.” Vì cái tên quá dài, nên bây giờ người Cần Thơ đi Sài Gòn thì chỉ cần nói là “lên thành phố!” là người ta đã hiểu.
Cỡ lớn láo như Phùng Quang Thanh, lên tới đại tướng mà còn mở miệng nói, “Không phong tướng, anh em tâm tư!” thì “chị em ta” cũng có thể nói, “Chị làm em cũng tâm trạng theo chị!” hay “con ấy... cực kỳ!” Danh từ, động từ, tĩnh từ, trạng từ... cứ loạn cả lên, toàn là những thứ “lộng ngôn” và “loạn ngôn” một cách rất “bất quy tắc!”
Thời trước đi học, mà viết, làm luận văn, nói lối này thì chắc chắn là bị thầy, cô giáo sổ...toẹt! Và thời nay nếu bỏ nước ra đi khá lâu, về thăm lại quê hương nên có một người đi theo để thông dịch.

Nói chuyện chữ nghĩa thời nay, thì phải viết thành một cuốn từ điển dày nghìn trang. Tôi không có tham vọng làm một cuộc nghiên cứu hay thống kê mà chỉ ghi.. tạp một vài chuyện mua vui. Nhưng chúng ta cũng nên cẩn thận, đừng ngộ nhận, khi có những tiếng ít nghe, ít dùng, nghe chưa quen tai đã vội chụp nón cối cho nó. Có lần tôi dùng tiếng “xiển dương” trong một bài viết, đã bị một ông bạn già khiển trách “sao lại dùng chữ Việt Cộng?”

Điều đau lòng tôi muốn trình bày với độc giả hôm nay là chúng ta lệ thuộc Tàu cả nghìn năm mà còn giữ được tiếng nói, chữ viết và bản sắc dân tộc. Trong nước nô lệ Cộng Sản mới bốn mươi năm mà dễ chừng ngôn ngữ đã có những sự thay đổi, nhất là ảnh hưởng không ít với những người đã đi ra nước ngoài, đã từng là nạn nhận của Cộng Sản. Tôi đã gặp những người tù chính trị đã ở trong nhà tù tập trung năm, mười năm mà vẫn dùng những danh từ “đi học tập- cải tạo” hay “trước giải phóng- sau giải phóng” một cách không suy nghĩ, thì trách gì vợ con họ, lấy lý do vì ở với Cộng Sản một thời gian dài, nên bị “đồng hóa!”

Một chuyện khác là các cơ quan truyền thông ở hải ngoại, vẫn cho mình là có lập trường chống Cộng nhưng vẫn dùng nguyên bản những tin tức, chương trình trong nước mà không chịu bỏ thời giờ sửa đổi lại theo cách nói và cách viết truyền thống của người Việt tại miền Nam trước 1975 và kể cả tại miền Bắc trước năm 1954.

Có khi vì thiếu vốn, lười biếng hay thỏa hiệp, truyền thông hải ngoại đem luôn cả chương trình làm sẵn, các cuốn phim của các nhà sản xuất hay đài truyền hình Việt Nam chiếu trong chương trình hằng ngày. Do vậy, tuy trên đài truyền hình không có cờ đỏ sao vàng, có chân dung lãnh tụ cộng sản, nhưng ngôn ngữ, hình ảnh, và chương trình từ giải trí đến thời trang, thi hoa hậu, đố vui, thực chất là những đài truyền hình Cộng Sản được soạn ra công phu để dành làm quà cho hải ngoại.

Người ta đã nói đến chuyện con ếch được luộc chín từ từ trong nước lạnh, hay chiến thuật vết dầu loang. Dần đà, chúng ta sẽ nghe quen tai, nhìn quen mắt và bị “luộc” lúc nào không hay.  Và những con người vốn chân chất, thật thà, tin người, chỉ thấy cái lợi trước mắt và cho cá nhân mình, không cảnh giác sẽ còn thua... nữa!

Huy Phương



Bảng Đối Chiếu Từ Ngữ

Do hiện nay cách dùng từ ngữ tại Việt Nam biến đổi quá nhiều, không chỉ do cách dùng từ ngữ cũ nhưng lại mang nghĩa khác xa với ý nghĩa mọi người vẫn hiểu từ xưa, lại thêm cách ghép từ ngữ cũ lại thành những từ ngữ mới rất tối nghĩa hay là viết tắt, nói tắt không trọn từ hay là dùng sai văn phạm, không phân biệt danh từ, động từ, tính từ khiến người nghe đôi khi chẳng hiểu được người kia đang muốn diễn tả điều gì.   Có những bài viết lạm dụng từ ngữ quá mức nhưng lại vẫn rất tối nghĩa, dù độc giả đọc tới đọc lui nhiều lần vẫn không hiểu rõ được nội dung tác giả muốn diễn đạt.  

Vì thế đã có một số vị dành thời gian soạn ra một danh sách các từ ngữ "xưa" và "nay" mong là sẽ giúp "thông dịch" để hiểu được phần nào lối viết và từ ngữ đang phổ biến hiện nay trong nước.

Sau 1975 Trước 1975
Ách tắc giao thông Kẹt xe
Ấn tượng Đáng ghi nhớ, đáng nhớ
Bác sỹ / Ca sỹ Bác sĩ / Ca sĩ
Bang Tiểu bang (State)
Bánh mỳ Bánh mì
Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ Bắc phần / Trung phần / Nam phần
Báo cáo Thưa trình, nói, kể
Bảo quản Che chở, giữ gìn, bảo vệ
Bài nói Diễn văn
Bảo hiểm (mũ) An toàn (mũ)
Bèo Rẻ (tiền)
Bệnh tiêu chảy cấp Bệnh tiêu chẩy cấp tính
Bị, hơi bị (đẹp) Không dùng động từ “bị;” chỉ dùng tĩnh từ (đẹp)
Bồi dưỡng (hối lộ?) Nghỉ ngơi, tẩm bổ, săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ
Bóng đá Đá Banh, Túc cầu
Bức xúc Dồn nén, bực tức
Bất ngờ Ngạc nhiên (surprised)
Bo (tiền) Tiền thưởng (tips)
Bộ phận nhân viên Một số, một nhóm nhân viên
??? Bộ phận = cơ quan trong cơ thể (sinh vật)
Bổ sung Thêm, bổ túc
Cách ly Cô lập
Cảnh báo Báo động, phải chú ý
Cái Alô Cái điện thọai (telephone receiver)
Cái đài Radio, máy phát thanh
Căn hộ Căn nhà
Cảng hàng không quốc tế Phi trường quốc tế
Căng (lắm) Căng thẳng (intense)
Cầu lông Vũ cầu
Chảnh Kiêu ngạo, làm tàng
Chất lượng Phẩm chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng “quantity”)
Chất xám Trí tuệ, sự thông minh
Chế độ Quy chế
Chỉ đạo Chỉ thị, ra lệnh
Chỉ tiêu Định suất
Chủ nhiệm Trưởng ban, Khoa trưởng
Chủ trì Chủ tọa
Chữa cháy Cứu hỏa
Chiêu đãi Thết đãi
Chui Lén lút
Chuyên chở Nói lên, nêu ra
Chuyển ngữ Dịch
Chứng minh nhân dân Thẻ Căn cuớc
Chủ đạo Chính
Co cụm Thu hẹp
Công đoàn Nghiệp đoàn
Công nghiệp Kỹ nghệ
Công sự (việc công) Công vụ
Công trình Công tác
Cơ bản Căn bản
Cơ khí (tĩnh từ!) Cầu kỳ, phức tạp
Cơ sở Căn bản, nguồn gốc
Cửa khẩu Phi cảng, Hải cảng
Cụm từ Nhóm chữ
Cực đại Tối đa
Cực hạn Vô giới hạn
Cứu hộ Cứu cấp
Dân oan ??? (trước 1975 không có từ nầy)
Diện Thành phần
Diễu hành Diễn hành
Dự kiến Phỏng định
Đại học mở ??? (đại học tư ???)
Đào tị Tị nạn
Đầu ra / Đầu vào Xuất lượng / Nhập lượng
Đại táo / Tiểu táo Nấu ăn chung, ăn tập thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình
Đại trà Quy mô, cỡ lớn
Đảm bảo Bảo đảm
Đăng ký Ghi danh, ghi tên
Đáp án Kết quả, trả lời
Đề xuất Đề nghị
Điện thoại đường dài Điện thoại viễn liên
Đối tác Đối tượng hợp tác ???
Đội ngũ Hàng ngũ
Đồng bào dân tộc Đồng bào sắc tộc
Đổng, đài, đạp Đồng hồ, máy phát thanh (radio), xe đạp
Động não Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ
Động thái Động lực
Động viên Khuyến khích
Đột xuất Bất ngờ
Đường băng Phi đạo
Đường cao tốc Xa lộ
(tính tình) Gai góc (tính tình) Ngang bướng, ương ngạnh ???
Gia công Làm ăn công
Giải phóng Lấy lại, đem đi… (riêng chữ này bị lạm dụng rất nhiều)
Giải phóng mặt bằng Ủi cho đất bằng
Giản đơn Đơn giản
Giao lưu Giao thiệp, trao đổi
Giáo viên Giáo sư
Hạch toán Kế toán
Hải quan Quan Thuế
Hàng không dân dụng Hàng không dân sự
Hát đôi Song ca
Hát tốp Hợp ca
Hạt nhân (vũ khí) Nguyên tử
Hậu cần Tiếp liệu
Học vị Bằng cấp
Hệ quả Hậu quả
Hiện đại Tối tân
Hộ Nhà Gia đình
Hộ chiếu Sổ Thông hành
Hồ hởi Phấn khởi
Hộ khẩu Tờ khai gia đình
Hội chữ thập đỏ Hội Hồng Thập Tự
Hoành tráng Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ
Hưng phấn Kích động, vui sướng
Hữu hảo Tốt đẹp
Hữu nghị Thân hữu
Huyện Quận
Kênh Băng tần (Channe
Khả năng (có) Có thể xẩy ra (possible)
Khẩn trương Nhanh lên
Khâu Nhóm, ngành, ban, khoa
Khủng ???
Kiều hối Ngoại tệ
Kiệt suất Giỏi, xuất sắc
Kinh qua Trải qua
Kinh tế gia đình Tài chính gia đình
Làm gái Làm nghề mãi dâm
(công an) Làm việc Thẩm vấn, điều tra
Lãnh đạo Chỉ huy
Lầu năm góc / Nhà trắng Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc
Liên hoan Đại hội, ăn mừng
Liên hệ Liên lạc (contact)
Linh tinh Vớ vẩn
Lính gái Nữ quân nhân
Lính thủy đánh bộ Thủy quân lục chiến
Logic Lý luận
Lợi nhuận Lợi tức
Lược tóm Tóm lược
Lý giải Giải thích (explain)
Máy bay lên thẳng Trực thăng
Múa đôi Khiêu vũ
Mỹ (Hoa Kỳ, USA)
Nắm bắt Nắm vững
Nâng cấp Nâng, hoặc đưa giá trị lên
Năng nổ Siêng năng, tháo vát
Nghệ nhân Thợ, nghệ sĩ
Nghệ danh Tên nghệ sĩ (stage name) dùng ngoài tên thật
Nghĩa vụ quân sự Đi quân dịch
Nghiêm túc Nghiêm chỉnh
Nghiệp dư Đi làm thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái)
Nhà ga quốc tế Phi trường quốc tế
Nhà khách, nhà nghỉ Khách sạn
Nhà văn nữ Nữ văn sĩ
Nhất trí Đồng lòng, đồng ý
Nhất quán Luôn luôn, trước sau như một
Nhu cầu cần (chữ nhu cầu bị lạm dụng vào mọi trường hợp)
Người nước ngoài Ngoại kiều
Nỗi niềm (tĩnh từ!) Vẻ suy tư
Phần cứng Cương liệu
Phần mềm Nhu liệu
Phản ánh Phản ảnh
Phản hồi Trả lời, hồi âm
Phát sóng Phát thanh
Phó Tiến Sĩ Cao Học
Phi khẩu Phi trường, phi cảng
Phi vụ Một vụ trao đổi thương mại (a business deal = thương vụ)
Phục hồi nhân phẩm Hoàn lương
Phương án Kế hoạch
Quá tải Quá sức, quá mức
Quán triệt Hiểu rõ
Quản Quan tâm
Quản lý Quản trị
Quảng trường Công trường
Quân hàm Cấp bực
Quy hoạch Kế hoạch
Quy trình Tiến trình
Quy trình xử lý nguyên liệu (cooking) Cách làm (món ăn)
Quỹ thời gian không cho phép Bận rộn, không có thời gian
Siêu ???
Sốc (“shocked)” Kinh hoàng, kinh ngạc, ngạc nhiên
Sơ tán Tản cư
Sư đoàn
Sức khỏe công dân Y tế công cộng
Sự cố Trở ngại
Sự cố xe cộ Hư xe
Tác nghiệp ??? (chữ nầy bị dùng sai nghĩa)
Tâm trạng ??? (chữ nầy bị lạm dụng trong mọi trường hợp)
Tập đoàn / Doanh nghiệp Công ty
Tập kết Tập trung
Tên lửa Hỏa tiễn
Tham gia lưu thông (xe cộ) Lưu hành
Tham quan Thăm viếng
Thanh lý Thanh lọc
Thân thương Thân mến
Thần kinh Điên, bệnh tâm thần
Thi công Làm
Thị phần Thị trường
Thu nhập Lợi tức
Thủ hạ lưu tình Hạ thủ lưu tình (hạ thủ mới đúng vì thủ hạ = người dưới quyền, còn hạ thủ = ra tay, xuống tay)
Thư giãn Tỉnh táo, giải trí
Thuyết phục (tính) Có lý (makes sense), hợp lý, tin được
Tiên tiến Xuất sắc
Tiến công Tấn công
Tiếp thu Tiếp nhận, thâu nhận, lãnh hội
Tiêu dùng Tiêu thụ
Tổ lái Phi hành đoàn
Tờ rơi Truyền đơn, quảng cáo
Tranh thủ Cố gắng
Trí tuệ Kiến thức
Triển khai Khai triển
Tuyên truyền Quảng cáo, phổ biến
Tư duy Suy nghĩ
Tư liệu Tài liệu
Tự sướng Selfie ???
Từ Tiếng, chữ
Ùn tắc Tắt nghẽn
Vấn nạn Vấn đề
Vận động viên Lực sĩ
Viện Ung Bướu Viện Ung Thư
Vô tư Tự nhiên
Vụ việc Sự việc
Vùng sâu, vùng xa Thôn quê
Xác tín Chính xác
Xe con Xe du lịch
Xe khách Xe đò
Xe ô tô con Xe du lịch, xe hơi
Xử lý Giải quyết, thi hành
Xưởng đẻ Nhà bảo sinh


Tứ Diễm sẽ update bài viết thêm sau

0 comments:

Post a Comment

 
;